.jpg)
Chủ nghĩa hợp hiến (Phần 1)
“Tự do của con người trong một chế độ cai trị có nghĩa là sống theo một luật lệ bền vững, chung cho cả mọi người trong xã hội; luật lệ này phải được quy định bởi quyền lập pháp đã được thiết lập trong chế độ đó.”
John Locke
Chủ nghĩa hợp hiến[1] hay pháp trị có nghĩa là quyền lực của những người lãnh đạo và của các cơ quan chính quyền phải được hạn chế. Chủ nghĩa hợp hiến, như một chủ thuyết về chính trị hay về luật pháp, nói về một chính quyền mà nhiệm vụ trước hết là nhằm phục vụ cho toàn thể mọi người và bảo vệ quyền cá nhân. Chế độ quản lý nhà nước theo hiến pháp dựa theo các tư tưởng chính trị tiến bộ, xuất phát từ Tây Âu và Mỹ nhằm bảo vệ quyền sống và quyền tư hữu của cá nhân cũng như là quyền tự do tín ngưỡng và tự do ngôn luận. Để bảo đảm các quyền đó các nhà soạn thảo hiến pháp đã nhấn mạnh những yếu tố như kiểm soát quyền lực của các ngành trong chính quyền, bình đẳng trước pháp luật, tòa án không thiên vị và tách rời quyền lực tôn giáo với quyền lực nhà nước. Những người tiêu biểu cho chủ thuyết này gồm thi sĩ John Milton [1], các nhà luật học Edward Coke [2] và William Blackstone [3], các chính khách như Thomas Jefferson [4] và James Madison [5], và các triết gia như Thomas Hobbes [6], John Locke [7], Adam Smith [8], Baron de Montesquieu [9], John Stuart Mill [10], và Isaiah Berlin [11].
Những vấn đề trong việc cai trị theo hiến pháp của thế kỷ XXI có lẽ sẽ là các vấn đề hiện hữu ngay trong các chính quyền được coi là dân chủ. Hiện nay có hiện tượng là các “chế độ dân chủ phi tự do”[12] càng ngày càng được coi là hợp pháp và do đó càng ngày càng mạnh hơn. Lý do là vì các chế độ đó có vẻ như khá dân chủ. Chế độ dân chủ phi tự do – nghĩa làchế độ dân chủ trên danh nghĩa nhưng lại thiếu phần chủ nghĩa tự do theo hiến pháp – là một chế độ không những thiếu sót mà lại còn nguy hiểm bởi vì nó sẽ dẫn tới sự băng hoại quyền tự do, lạm dụng quyền lực, chia rẽ chủng tộc, thậm chí có thể gây ra chiến tranh. Sự quảng bá dân chủ trên thế giới thường không đi đôi với sự quảng bá của chế độ tự do theo hiến pháp. Một số nhà lãnh đạo được bầu lên theo thể thức dân chủ đã dùng quyền lực của mình để giới hạn các quyền tự do.
Ngoài việc có bầu cử công bằng và tự do hay gia tăng cơ hội phát biểu về chính trị, một truyền thống sinh hoạt tự do chính trị thực sự còn phải cống hiến những yếu tố khác nữa. Chế độ dân chủ tự do còn phải đặt nền tảng pháp lý cho việc phân chia quyền lực để gìn giữ quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng và quyền tự do sở hữu tài sản.
Chủ nghĩa hợp hiến: nền tảng lịch sử
Các lý thuyết chính trị tiến bộ hiện đại đã thể hiện trên thực tế qua quá trình đấu tranh chochủ nghĩa hợp hiến. Thắng lợi sớm nhất, và có lẽ cũng là lớn nhất, là thắng lợi đạt được tại Anh. Giai cấp thương nhân ngày càng lớn mạnh, trước kia ủng hộ chế độ quân chủ Tudor 13 trong thế kỷ XVI, đã lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng trong thế kỷ XVII và thiết lập được quyền tối cao của Quốc hội và sau đó là quyền tối cao của Hạ nghị viện.
Đặc điểm của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại xuất phát từ cuộc đấu tranh đó, không phải là việc đòi hỏi nhà vua cũng phải tuân theo luật pháp. Tuy quan niệm này là một đặc tính cốt yếu của chủ nghĩa hợp hiến nhưng thực ra nó đã được hình thành rõ rệt từ thời Trung cổ. Điểm độc đáo (của chế độ này) là việc thiết lập các phương tiện kiểm soát chính trị hữu hiệu để thi hành chế độ pháp trị. Chủ nghĩa hợp hiến hiện đại được khai sinh với đòi hỏi là đại diện chính quyền phải lệ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân.
Hơn thế nữa, chủ nghĩa hợp hiến hiện đại liên quan mật thiết với kinh tế và chủ thể của nguồn tài chính, tức là những người đóng thuế để nuôi chính quyền phải được đại diện trong chính quyền đó. Nguyên tắc nguồn cung cấp kinh tế phải gắn liền với việc sửa sai các điều khiếu nại là điều cốt yếu trong chủ nghĩa hợp hiến hiện đại. Sự suy giảm nguồn thu của nhà vua trong chế độ phong kiến, sự lớn mạnh của các định chế đại diện cho dân và sự gia tăng tinh thần đoàn kết dân tộc – thay vì là sự thần phục có tính chất tượng trưng đối với nhà vua và triều đình – đã khiến cho việc giới hạn quyền lực của vua trở thành hiện thực và hữu hiệu.
Tuy nhiên, như ta có thể thấy qua các điều khoản của Đạo luật về quyền năm 1689 (Bill of Rights, 1689), cuộc cách mạng ở Anh đã được diễn ra không phải chỉ để bảo vệ quyền sở hữu tài sản (theo nghĩa hẹp) mà còn thiết lập các quyền tự do mà những người tiến bộ cho là có giá trị tinh thần thiết yếu cho phẩm cách của con người. “Các quyền con người” được nêu trong Đạo luật về quyền của nước Anh dần dần được phổ biến ra ngoài biên giới của nước Anh, nhất là trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 (American Declaration of Independence, 1776) và trong Tuyên ngôn Nhân quyền của Pháp năm 1789 (Declaration of the Rights of Man, 1789). Thế kỷ XVIII chứng kiến sự xuất hiện của chế độ chủ nghĩa hợp hiến tại Mỹ và Pháp; và tới thế kỷ XIX thì chế độ này lan ra tới các nước Đức, Ý và các nước phương Tây khác với những mức độ thành công khác nhau.
Chủ nghĩa hợp hiến và di sản của các bậc khai quốc Hoa Kỳ
Trật tự theo hiến pháp của xã hội Mỹ đặt cơ sở trên sự ưng thuận của mọi người có lương tri, nam cũng như nữ. Sự ưng thuận này được biểu hiệu bằng một “khế ước xã hội” ấn định việc ủy thác để thực hiện một số mục đích giới hạn. Các lý thuyết về “khế ước xã hội” được thịnh hành nhiều nhất vào thế kỷ XVII và XVIII tại châu Âu, và thường được gắn liền với các triết gia người Anh như Thomas Hobbes và John Locke, và triết gia Pháp Jean Jacques Rousseau [14]. Các nhà tư tưởng này cho rằng, vì lợi ích riêng cho mình và vì lẽ phải, cá nhân phải có nghĩa vụ chính trị đối với tập thể. Các nhà tư tưởng đó nhận thức được các ưu điểm của một xã hội dân sự trong đó các cá nhân vừa có quyền và vừa có nghĩa vụ, so với các khuyết điểm của một “nhà nước tự nhiên” là tình trạng giả định trong đó hoàn toàn không có một thẩm quyền cai trị nào cả. Ý tưởng “khế ước xã hội” phản ánh nhận thức cơ bản là một tập thể sinh động – chứ không phải chỉ là một chính quyền – phải được thành lập thì mới có được một chính thể tự do trong đó con người được bảo vệ để chống lại sự tấn công của các ý tưởng mê muội gây ra sự hỗn loạn, nạn chuyên chế và tình trạng nổi loạn chống lại trật tự hợp lý của con người.
Trong Luận cương Liên bang số 2 (Federalist Paper No. 2), John Jay [15] nhận xét rằng cá nhân phải nhường một số quyền tự nhiên của họ cho xã hội thì chính quyền mới có quyền lực cần thiết để hành động nhằm bảo đảm lợi ích chung. Do đó, sự tham gia của công dân vào một nền dân chủ theo hiến pháp cũng đòi hỏi người công dân phải có trách nhiệm tôn trọng các luật và các quyết định của tập thể trong các hoạt động công cộng, ngay cả khi cá nhân hoàn toàn không đồng ý với các luật và quyết định đó. Cả “người vật” – như các kẻ tin vào thuyết hư vô và bọn vô chính phủ – lẫn những “người tự coi mình là thần thánh” – như những kẻ có khuynh hướng độc tài, toàn quyền thao túng pháp luật – cả hai loại người này đều bị Aristotle [16], Spinoza [17] cho là phải được trấn áp và xua đuổi ra khỏi xã hội. Hobbes, Locke và các bậc Khai sáng ra nước Mỹ cũng hưởng ứng quan điểm đó. Đó là điều kiện cốt yếu của một xã hội dân sự, không có nó thì xã hội dân sự không thể tồn tại. Các luật lệ và chính sách của một chính quyền theo hiến pháp không những chỉ có tầm mức giới hạn và căn cứ vào sự thỏa thuận mà còn phải có nhiệm vụ phải phục vụ cho sự an sinh của mọi người trong xã hội nói chung và còn cho cả từng cá nhân trong xã hội đó. Các chính khách Mỹ – từ những nhà cách mạng đến những người soạn thảo Hiến pháp – đều coi đó là di sản của lịch sử Hoa Kỳ. Di sản đó đã bắt đầu xuất hiện từ Tuyên ngôn Độc lập (1776), qua các Điều khoản của Liên bang (1781) (Articles of Confederation,1781), tới khi kết thúc cuộc chiến tranh cách mạng (1787) (Revolutionary War, 1783), lúc hình thành Hiến pháp (1787) và việc phê chuẩn Bộ luật về quyền (1791) (Bill of Rights, 1791). Sau đây là một số các chủ đề chung tiêu biểu cho công cuộc tranh đấu cho tự do và chế độ hiến pháp tại Mỹ.
Chú thích:
[1] John Milton (1608-1674): Thi sĩ lớn tại Anh, tác giả thiên trường ca nổi tiếng Paradise Lost (1667)
[2] Edward Coke (1552–1634): Luật gia nổi tiếng trong lịch sử luật pháp tại Anh.
[3] Sir William Blackstone (1723-1780): Luật gia và giáo sư luật nổi tiếng của nước Anh. Tác giả của tác phẩm nổi tiếng về thông luật có tiêu đề là Commentaries on the Laws of England (1765–1769).
[4] Thomas Jefferson (1743-1826): Tổng thống thứ ba cùa Hoa Kỳ trong giai đoạn 1801-1809.
[5] James Madison (1751-1836): Tổng thống thứ tư cùa Hoa Kỳ trong giai đoạn 1809-1817.
[6] Thomas Hobbes (1588-1679): Triết gia chính trị của nước Anh. Tác phẩm nổi tiếng là Leviathan (1651).
[7] John Locke (1632-1704): Triết gia nổi tiếng của nước Anh. Các tư tưởng của ông về cai trị với sự thỏa thuận của nhân dân, quyền tự nhiên của nhân dân (quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu tài sản) có ảnh hưởng rất nhiều đến triết học chính trị.
[8] Adam Smith (1723-1790): Nhà kinh thế chính trị và triết gia về đạo đức của Scotland. Tác phẩm nổi tiếng của ông (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations), giúp tạo ra khoa kinh tế học và đưa ra các lý luận nổi tiếng về tự do mậu dịch và chủ nghĩa tư bản.
[9] Charles-Louis de Secondat, Baron de La Brède et de Montesquieu (1689-1755): Thường được gọi là Montesquieu, nhà tư tưởng chính trị của Pháp, sinh trưởng trong Thời kỳ Khai sáng (thế kỷ 18). Ông nổi tiếng là người chủ trương phân chia quyền lực trong chính quyền.
[10] John Stuart Mill (1806-1873): Triết gia và chính trị kinh tế gia của nước Anh, một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng của trường phái tự do cổ điển.
[11] Sir Isaiah Berlin (1909-1997): Triết gia chính trị và sử gia về tư tưởng, một trong những nhà tư tưởng tiến bộ nổi tiếng trong thế kỷ 20.
[12] Tức là chế độ dân chủ không có tự do.
[13] Thời đại Tudor trong lịch sử nước Anh kéo dài 118 năm từ 1485 tới 1603.
[14] Jean-Jacques Rousseau (1712-1778): Triết gia, nhà văn hào và lý thuyết gia chính trị, người Pháp gốc Thụy Sĩ. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Social Contract (Khế ước xã hội).
[15] John Jay (1745-1829): Chính trị gia và luật gia nổi tiếng của Mỹ. Thẩm phán đầu tiên và cũng là ít tuổi nhất của Toà án Tối cao Mỹ từ 1789 tới 1794.
[16] Aristotle (384-322 trước Công nguyên): Triết gia cổ Hy Lạp, môn đệ của Plato và thầy dạy của Alexander Đại đế (Alexander the Great).
[17] Benedictus de Spinoza (1632-1677): Triết gia thuộc môn phái duy lý vào thế kỷ 17. Tác phẩm nổi tiếng là Đạo đức học (Ethics).
Nguồn bản gốc: Russell, Greg (2001). "Constitutionalism: America & Beyond", in Melvin Urofsky, ed. The Democracy Papers (Washington, D.C.: US Department of State, 2001), pp. 1-5.